Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2011

Năm Mão và những dấu ấn trong tiến trình cách mạng Việt Nam

      Tiến trình cách mạng Việt Nam gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Đồng hành cùng thời gian, tiến trình cách mạng đã để lại dấu ấn quan trọng trong những năm Mão.  
       ĐINH MÃO-1927: Gần một thập kỷ (1911-1919), kể từ ngày rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn), người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành bôn ba đến các sào huyệt của chủ nghĩa tư bản, đế quốc như Anh, Pháp, Mỹ và các nước thuộc địa để tìm hiểu cuộc sống của những người lao khổ. Đặt chân lên nước Nga xô-viêt Người tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin và nhận ra con đường giải phóng dân tộc là làm cách mạng vô sản. Người tham gia các cuộc vận động cách mạng ở nhiều quốc gia, châu lục, đồng thời đấu tranh cho tự do, độc lập của dân tộc mình.Năm Đinh Mão-1927, Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản cuốn Đường cách mệnh, tại Quảng Châu (Trung Quốc). Đây là cuốn sách gồm những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, trong những năm 1925-1927, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng và phương pháp cách mạng, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa xuân năm 1930.Bản án chế độ thực dân Pháp (xuất bản năm 1925) và Đường cách mệnh là 2 tác phẩm lớn đánh dấu những mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, đồng thời là những văn kiện lý luận đầu tiên của Đảng ta, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam. 
        KỶ MÃO- 1939: Ngày 1-9-1939 cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ: Đây là cuộc chiến tranh do bọn phát xít Đức, Ý, Nhật gây ra với âm nưu chia lại thị trường thế giới và tiêu diệt nước Nga Xôviết. Cuộc chiến tranh (1939-1945) đã cuốn hút 72 nước,  1.700 triệu người vào vòng chiến, với 110 triệu quân tham chiến diễn ra trên lãnh thổ 42 quốc gia. Loài người đã phải gánh chịu một tai hoạ khủng khiếp, hơn 55 triệu người bị chết, tiêu huỷ khối lượng của cải vật chất khổng lồ, trị giá 316 tỷ đô la.  Chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương cũng mạnh tay đàn áp, khủng bố: Giải tán các đoàn thể quần chúng, đặt ra nhiều loại thuế mới, trưng thu, trung dụng các xí nghiệp tư nhân, bắt lính, bắt phu để phục vụ chiến tranh, đời sống nhân dân lao động cùng cực…Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 6 họp trong các ngày 6,7,8 tháng 11 năm 1939 tại Hóc Môn (Sài Gòn) do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã phân tích tình hình thế giới, trong mước, khẳng định “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương, không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp…” và chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương. Đây là sự nhạy bén và sáng tạo lớn của Đảng ta, giải quyết đúng đắn mối quan hệgiai cấp-dân tộc trong điều kiện lịch sử cụ thể.
                  TÂN MÃO-1951:  Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II  là một sự kiện lịch sử trọng đại trong đời sống chính trị của dân tộc, lần đầu tiên tổ chức trên đất nước ta: Xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang.  Đại hội chính thức khai mạc từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên đang sinh hoạt trong Đảng bộ toàn Đông Dương. Đến dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Xiêm (Thái Lan).Đại hội đã thảo luận Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng và các báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất, Chính quyền dân chủ nhân dân, Quân đội nhân dân, kinh tế - tài chính và về văn hoá, văn nghệ…         
        Đại hội bầu BCH Trung ương mới gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự khuyết. BCH đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí Minh được BCH Trung ương bầu là Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh là Tổng Bí thư. Đây là lần đầu tiên BCH Trung ương Đảng được bầu hợp thức trong một Đại hội có đầy đủ đại biểu toàn quốc.   
       Đại hội đề ra nhiệm vụ chiến lược là đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và tổ chức Đảng Lao động Việt Nam, đưa Đảng ra hoạt động công khai.  Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng, quân và dân ta đã đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên khắp chiến trường, đặc biệt là chiến thắng Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đã phá tan kế hoạch Na-Va của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc đối phương phải ngồi vào đàm phán tại Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương. Nửa nước được hoàn toàn giải phóng.
       QUÝ MÃO-1963: Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã thu được những thành tựu quan trọng, cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân miền Nam tuy gian khổ, khốc liệt nhưng đã thu được những thắng lợi to lớn, kẻ địch bị đẩy vào “con đường hầm không lối thoát”, buộc đế quốc Mỹ phải “thay ngựa giữa dòng”, Mỹ làm cuộc đảo chính ngày 1-11-1963, lật đổ sự thống trị độc tài của Ngô Đình Diệm, đưa Dương Văn Minh, một nhân vật đại biểu cho nhóm quân sự thân Mỹ, lên cầm đầu chính quyền bù nhìn ở miền Nam Việt Nam, chúng càng lún sâu vào những thất bại mới liên tiếp và sự khủng hoảng sâu sắc hơn trong nội bộ bè lũ tay sai. 
      ẤT MÃO-1975:Cuộc tiến công và nổi dậy màu xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, giang sơn thu về một mối, kết thúc thắng lợi vẻ vang 30 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, khốc liệt, “đánh thắng hai đế quốc to”, hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
       ĐINH MÃO-1987: Cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội nảy sinh từ cuối thập kỷ 70 (thế kỷ XX), kéo dài hơn 10 năm liền, lạm phát gay gắt (năm1986 lên tới 774,7%). Năm 1987, năm đầu tiên triển khai đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra (tháng 12-1986), tình hình tuy còn diễn biến phức tạp, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tỏ rõ bản lĩnh vững vàng, ra sức khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết những vấn đề cấp bách về kinh tế-xã hội, từng bước đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống. 
      KỶ MÃO-1999: Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2), BCH Trung ương Đảng (khóa VIII) quyết định mở cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong 2 năm (19/5/1999-19/5/2001), xác định khâu đột phá và biện pháp có ý nghĩa then chốt là tiến hành tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy, tổ chức Đảng và cán bộ chủ chốt từ Trung ương đến cơ sở. Cuộc vận động đã nâng cao một bước nhận thức chính trị, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên; phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết; nâng cao ý thức đề phòng và ngăn ngừa sự suy thoái về đạo đức, lối sống, xử lý kịp thời một số vụ việc và cán bộ, đảng viên vi phạm, góp phần tích cực chuẩn bị nhân sự đại hội Đảng và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 1999-2004. 
          TÂN MÃO-2011: Đại hội lần thứ XI của Đảng diễn ra trong những ngày đầu Xuân Tân Mão là đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại, xem xét, quyết định bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991, làm nền tảng chính trị tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới là ba thành tố quan trọng cũng là ba động lực cơ bản thúc đẩy tiến trình cách mạng hướng tới mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; và đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo hướng xã hội chủ nghĩa../.
                                                                                   HỒNG MINH------------------                                                                             

Phát huy giá trị văn hóa, lịch sử các lễ hội



  
       Xứ Kinh Bắc xưa nổi tiếng là vùng đất của những câu chuyện cổ, những sự tích văn hoá và là một trong những địa phương có nhiều lễ hội. Theo thống kê của cơ quan văn hoá tỉnh Bắc Ninh, đến nay toàn tỉnh có 547 lễ hội, trong đó có 49 hội chùa, 484 hội đình và 14 hội đền. Các lễ hội diễn ra quanh năm, nhưng tập trung vào mùa xuân, tháng giêng, tháng hai âm lịch, gần như ngày nào cũng có vài, ba hội: “Mồng 4 là hội kéo co, Mồng 5 hội Ó chẳng cho nhau về, Mồng 6 là hội Bồ Đề, Mồng 7 trở về đi hội Đống Cao…”. Một số lễ hội thu hút khách từ nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước như Hội Lim, Hội chùa Dâu, đền Bà Chúa Kho...
        Hầu hết các lễ hội đều có lịch sử lâu đời, gắn với truyền thống địa phương, thể hiện được tính gắn kết của cộng đồng làng xã, tình yêu thiên nhiên, tôn kính anh hùng hào kiệt, là biểu hiện phong phú của đời sống tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo và những hoạt động văn hoá, nghệ thuật dân gian tiêu biểu, mang đậm bản sắc riêng có của một miền quê văn hiến. Tuy nhiên, nhìn lại một số lễ hội tiêu biểu tại Bắc Ninh cho thấy: bên cạnh những giá trị tích cực, các lễ hội đã và đang bộc lộ những mặt lệch lạc, cần sớm được chấn chỉnh, khắc phục như: xu hướng thực dụng, thương mại hoá lễ hội, làm lu mờ giá trị văn hoá, lịch sử, lan tràn mê tín dị đoan và những hủ tục lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, mất trật tự, trị an ...Hội Lim có từ lâu đời và trở thành hội vùng của các làng thuộc tổng Nội Duệ  từ thế kỷ 18. Khi quan trấn thủ xứ Thanh Hóa Nguyễn Đình Diễn là người thôn Đình Cả, có nhiều công lao với triều đình, được phong thưởng nhiều bổng lộc, đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. Ông cho xây dựng trước phần lăng mộ của mình đặt tên là lăng Hồng Vân trên núi Lim. Kế đó là Bà Mụ Ả, người tu hành và trụ trì tại chùa Hồng Ân (lúc đó chỉ là một Am nhỏ), Bà đã bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Ân dành cho việc xây dựng chùa, vườn chùa và cũng đặt ruộng, đặt tiền cho 6 xã làm hương hoả cho chùa. Hàng năm vào ngày 13 tháng Giêng dân làng tổ chức Lễ hội tưởng nhớ những người đã có công với cộng đồng dân cư nơi đây. Một trong những hoạt động tại hội Lim thu hút sự chú ý của khách thập phương là lễ rước từ các làng lên núi Hồng Vân, đoàn rước với đông đảo người dân tham gia trong những bộ lễ phục sặc sỡ sắc màu, sau đó là lễ tế trước lăng Hồng Vân, tưởng nhớ công lao của tiền nhân. Nhưng đại bộ phận công chúng đi hội đều không được giới thiệu ý nghĩa của các nghi lễ này và cũng không hiểu được lịch sử của lễ hội, kể cả những người sống trong vùng Lim, làm mất giá trị giáo dục truyền thống. 
      Đặc trưng của hội Lim là hội của dân ca quan họ, một loại hình dân ca vừa được công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại. Mấy năm gần đây Ban tổ chức đã dựng nên những lán trại, trong đó có 2 lán được xây dựng kiên cố, với kinh phí đầu tư hơn 3 tỷ đồng, để các “câu lạc bộ quan họ” phục vụ du khách, nhưng trong không gian lễ hội xô bồ, các lán trại không cách xa nhau mấy đều dùng trang âm công suất lớn, nên du khách như bị tra tấn bởi những âm thanh hỗn tạp, chát chúa. Đáng buồn là, một số “liền anh”, “liền chị” giữa thanh thiên bạch nhật không ngần ngại vừa hát, vừa chìa cơi đựng trầu hoặc chiếc nón quai thao, mặc nhiên nhận những đồng tiền của du khách ném vào! Không ít du khách cũng “nhiệt tình” hỗ trợ cho hành vi không đẹp này bằng cách dí tiền vào tận tay người đang ca quan họ. Cũng có không ít du khách vô tư nhảy vào xen giữa liền anh, liền chị đang hát để... chụp ảnh, khiến cho không gian quan họ trở nên buông tuồng, xuồng sã. Có người đã thốt lên, đâu rồi nét đẹp thanh cao, lịch lãm của một lễ hội tiêu biểu nhất trên mảnh đất Kinh Bắc giàu truyền thống văn hiến?Để đáp ứng nhu cầu của du khách, Ban tổ chức đã giao cho một số gia đình tổ chức canh hát tại nhà, mỗi gia đình được hỗ trợ kinh phí để đun nước, pha trà mời khách. Dưới ánh sáng của các ngọn nến tại các căn nhà cổ, du khách được thưởng thức các canh quan họ nguyên gốc, không nhạc đệm, không tăng âm, được ngồi trên những bộ chõng tre, tràng kỷ, chiếu điều, bên ấm trà tươi, nhai trầu têm cánh phượng, thả hồn trong không gian tĩnh mịch, được chiêm ngưỡng các liền anh, liền chị duyên dáng, nền nã trong bộ trang phục mớ ba, mớ bảy, áo the khăn sếp, với những giọng ca “vang, rền, nền, nẩy”, làm mê đắm lòng người ! Nhưng những canh hát như vậy chưa nhiều và số đông người đi trẩy hội chưa có điều kiện tiếp cận với các canh hát. 
      Sau mấy chục năm bị lãng quên do đất nước có chiến tranh, Hội Lim được phục dựng theo quy mô vùng từ năm 1989, cách đây đã trên 20 năm, hằng năm đều thu hút hàng vạn khách thập phương, nhưng không gian lễ hội vẫn chưa được chỉnh trang tôn tạo hoàn chỉnh, không có nơi trông giữ xe, không có thùng rác, không có công trình vệ sinh, một số “công trình” dựng nên tạm bợ bên bờ ruộng, sườn đồi bằng những lá cót, tấm bạt rách, nhưng vẫn có người đứng thu tiền. Hàng ăn uống giải khát bày dọc hai bên đường lẫn với cát bụi. Các dịch vụ ăn uống, trông giữ xe, bán hàng lưu niệm tràn lan với giá cắt cổ. Mặc dù đã có lệnh cấm, nhưng các hình thức đánh bạc (xóc đĩa, đánh bài, úp xu…), và trò vui chơi có thưởng vẫn ngang nhiên dụ dỗ, mồi chài, lừa lọc du khách.      
      Đền Bà Chúa Kho toạ lạc trên núi Kho, (thôn Cô Mễ, xã Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh). Tại đây thờ một phụ nữ người làng Quả Cảm đã có công chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang, tích luỹ lương thực, giúp triều đình trông coi kho lương trong cuộc kháng chiến chống Tống trên chiến tuyến Như Nguyệt. Bà "thác" ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ(1077). Nhà vua thương tiếc phong cho Bà là Phúc Thần. Người dân nhớ thương Bà lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với một niềm tôn kính là: Bà Chúa Kho. Đền Bà Chúa Kho mới được khôi phục cách đây vài chục năm. Hằng năm, khách từ các tỉnh, thành phố trong cả nước về đây dâng hương, lễ vật không phải vì lòng tôn kính công lao và phẩm hạnh của Bà với đất nước mà đều có ý nguyện được Bà phù hộ, độ trì để “ăn nên, làm ra”, giàu sang, phú quý. Theo thông lệ có vay, có trả nên tuy khách đi lễ quanh năm nhưng đông nhất là 3 tháng đầu năm (đi vay hoặc “xin lộc rơi, lộc vãi”) và 3 tháng cuối năm (đi trả). Không có con số chính xác nhưng mỗi năm, những người đi lễ về đây bỏ tiền ra mua sắm  vàng giấy và tiền âm phủ đã gây ra một sự lãng phí không nhỏ, một số người kinh doanh, buôn bán bỏ ra hàng triệu hoặc vài ba triệu để mua đồ lễ. Điều làm cho du khách phiền lòng là tình trạng bám theo du khách từ xa, có khi vài ba cây số để chèo kéo vào mua đồ lễ. Đội quân bán thẻ, khấn thuê mời chào công khai nhưng không có sự ngăn chặn triệt để của Ban quản lý đền. Do lượng khách đi lễ đông nên thường xảy ra tình trạng chen lấn, xô đẩy, khách đi lễ không những phải khấn vái từ xa mà nhiều khách bị kẻ gian móc túi làm mất cả tài sản, tiền bạc, có trường hợp bị cướp giữa ban ngày.
 *
     Lễ hội là hoạt động văn hoá, là nhu cầu phong phú, đa dạng của cộng đồng dân cư đối với đời sống tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo. Để phát huy được giá trị đích thực của các lễ hội, trước hết cần chú trọng tuyên truyền, giáo dục làm cho người dân nhận thức đúng đắn mục đích của các lễ hội là nhằm phát huy giá trị văn hoá, tôn vinh và nhớ ơn công tích các danh nhân, giáo dục truyền thống lịch sử, góp phần xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở đậm đà bản sắc dân tộc và sắc thái địa phương. Dù là lễ hội của làng xã hay của vùng, đều phải đặt dưới sự quản lý của chính quyền và sự chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ của cơ quan Văn hoá-Thể thao-Du lịch các cấp. Cần thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về lễ hội. Các hoạt động tại lễ hội (kể cả phần lễ và phần hội) đều phải đảm bảo văn minh, lành mạnh, an toàn, vệ sinh, tiết kiệm. Cần tăng cường kiểm tra, ngăn chặn biểu hiện thương mại hoá, kiên quyết xử lý nghiêm minh các hoạt động mê tín dị đoan, đánh bạc dưới mọi hình thức. Tại không gian lễ hội nên đặt các pa-nô, áp phích cỡ lớn giới thiệu lịch sử lễ hội, nội dung, chương trình, địa điểm diễn ra các hoạt động của lễ hội, giúp cho du khách nắm được toàn cảnh. Các phương tiện thông tin đại chúng biểu dương đúng mức mặt tích cực đồng thời phân tích, phê phán những lệch lạc, khuyết điểm để các địa phương và cơ sở rút kinh nghiệm tổ chức lễ hội những năm sau hoàn thiện hơn, tránh tuyên truyền, khen ngợi một chiều./. 
                                                                 HỒNG MINH






Hồi ký "Chuyện đời ấm lạnh, buồn vui", những bài học nóng hổi tính thời sự


[Image] Anh Mai Thúc Lân, nguyên Ủy viên Trung Ương Đảng,
 nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, khóa X


          Say sưa đọc xong hơn 400 trang hồi ký của anh Mai Thúc Lân gửi tặng, trong tôi lại ùa về những ký ức một thời Hà Bắc, về những năm tháng cùng công tác với anh ở Ty Nông Nghiệp, rồi UBND tỉnh Hà Bắc, là thành viên UBND tỉnh khóa 1985-1989, anh là Chủ tịch.
        Chứng kiến một phần “ấm lạnh, buồn vui” trong cuộc đời anh, tôi cũng như nhiều người đương thời đều cảm phục một đảng viên mẫu mực, một cán bộ lãnh đạo tài năng, quyết đoán và có bản lĩnh, đồng thời cũng là người anh, người bạn giàu tình cảm.Anh sinh ra ở làng Nông sơn (nay thuộc xã Điện Phước, huyện Điện Bàn, tỉnh Quang Nam) nhưng 2 phần ba cuộc đời hoạt động của anh đã gắn bó với đất và người Kinh Bắc, anh coi Hà Bắc như quê hương thứ hai của mình; anh gắn bó cả cuộc đời mình với cô thôn nữ miền trung du Bắc Bộ như anh từng mong ước, chia sẻ ngọt bùi, “ấm lạnh, buồn vui”, bóng dáng của người thôn nữ Kinh Bắc đã góp phần quan trọng gây dựng nên sự nghiệp của anh, từ một cán bộ kỹ thuật nông nghiệp trở thành Phó Trưởng ty, Trưởng ty Nông Nghiệp, rồi Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Bắc.[Image]
       Anh gắn bó với nông nghiệp Bắc Giang, sau này là Hà Bắc ngay từ khi hòa bình vừa mới được lập lại trên miền Bắc được vài ba năm, dấu chân người cán bộ kỹ thuật đã lặn lội khắp các huyện, xã trong tỉnh, đóng góp công sức, trí tuệ vào thành công của các phong trào trong nông nghiệp như: làm thủy lợi và cải tạo đất, với điển hình nổi tiếng cả nước là Hợp tác xã Trung Hòa, công thức 4 L (lúa-lang-lạc-lợn), phát triển diện tích lúa xuân trở thành vụ sản xuất chính… Một sự kiện đọng lại trong tâm trí nhiều người cho đến tận hôm nay là năm 1986 anh đã cùng tập thể lãnh đạo, chỉ đạo, quyết đoán phương án do cán bộ kỹ thuật đề suất, xử lý thành công “sự cố đê Nội Doi”, tránh được thảm cảnh lụt lội cho nhân dân các huyện bắc phần Bắc Ninh.
      Là một cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, anh lặn lội trên đồng ruộng, gần gũi nông dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân và từ thực tiễn anh đã chắt lọc, tổng kết, để từ đó đề suất ra những chủ trương, chính sách phù hợp, đem lại lợi ích chính đáng, thiết thực cho người dân. Khi anh là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh phụ trách nông-lâm nghiệp, thủy lợi, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy lúc đó đề ra một số chủ trương không có tính khả thi, nhiều ý kiến bàn luận nhưng không dám nói ra, như: đánh số trâu bò, đưa đất 5% của xã viên vào hợp tác xã quản lý… Anh đã thẳng thắn nêu quan điểm của mình trong hội nghị Ban Thường vụ và hội nghị Tỉnh ủy, có khi trực tiếp tranh luận với Bí thư Tỉnh ủy (thời kỳ này còn có một số chủ trương cực đoan và không thành công như: Đường goòng Đồng Tiến-Bến Nhãn, Công trường phù sa Quế Võ, khai thác vàng sa khoáng Lục Ngạn). 
       Anh là người tích cực hưởng ứng chủ trương khoán sản phẩm cuối cùng trong nông nghiệp, mặc dù biết rằng người lãnh đạo cao nhất của tỉnh lúc đó không mặn mà với chủ trương này. Việc thể hiện quan điểm cá nhân trái với ý kiến của lãnh đạo cấp trên, nhất là người đứng đầu thường là việc không dễ dàng, nhưng như anh tâm sự, đó là tính cách người Quảng Nam và bản lĩnh của người đảng viên Cộng sản. Thời gian đã lùi xa, xâu chuỗi lại những sự kiện “ấm lạnh, buồn vui” trong cuộc đời anh, tôi  càng thêm cảm phục sự dũng cảm và lý giải rõ hơn về những khó khăn mà anh nếm trải trong ít năm sau đó. Anh Mai Thúc Lân là người cương trực, thẳng thắn đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực của cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị và ngoài xã hội. Khi là trưởng phòng trồng trọt và là ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy cơ quan Ty Nông nghiệp, được phân công viết báo cáo tổng kết nhiệm kỳ, chuẩn bị Đại hội Đảng bộ cơ quan. Báo cáo đã phê phán gay gắt những hiện tượng tiêu cực, những khuyết điểm trong công tác Đảng ở một số chi bộ và của một bộ phận đảng viên. Báo cáo được tập thể Đảng ủy thông qua, nhưng sau khi đọc tại Đại hội, một số đảng viên là trưởng, phó phòng phản đối gay gắt, coi báo cáo như là ý kiến cá nhân, khi bầu cử BCH Đảng bộ anh vẫn trúng cử, nhưng bầu ban thường vụ, anh chỉ quá bán được 1 phiếu. Anh viết trong hồi ký: “Tôi rất băn khoăn không hiểu vì sao mình lại là tiêu điểm đả kích, chống đối của một số đảng viên là lãnh đạo cơ quan và trưởng phó phòng, trong khi mình đã làm việc hết mình.” Anh trao đổi băn khoăn đó với một số anh em thân thiết thì được giải thích: “Ông thật thà quá, gần đây có dư luận là ông sẽ được đề bạt Phó Chủ nhiệm (**) và có thể còn được giới thiệu vào danh sách Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh trong Đại hội sắp tới, nên họ đánh trước đi là vừa”. 
       Đầu năm 1986, UBND tỉnh và cá nhân anh Mai Thúc Lân khi đó là Chủ tịch nhận được nhiều đơn tố cáo Giám đốc Công ty Ngoại thương huyện Lạng Giang tham ô, móc ngoặc và có hành động đồi trụy. Chủ tịch UBND tỉnh giao cho Thanh tra tỉnh tổ chức Đoàn thanh tra, nhưng khi nghe Đoàn báo cáo kết quả thanh tra thì nêu rất nhiều thành tích và ưu điểm của giám đốc công ty, không có khuyết điểm gì nghiêm trọng như các đơn tố cáo của cán bộ, đảng viên. Chủ tịch và nhiều đồng chí trong Thường trực UBND tỉnh cho rằng đây là một bản báo cáo không trung thực, có thể Đoàn thanh tra đã bị giám đốc công ty “mua” rồi, vì vậy quyết định thành lập Đoàn thanh tra liên ngành bao gồm cả đại diện Công an và Viện KSND tỉnh tham gia. Giám đốc Công ty Ngoại thương Lạng Giang, biết không thể “mua” được nữa nên đã bàn với anh trai công tác ở Ban Tổ chức chính quyền tỉnh thuê người ném lựu đạn vào nhà Chủ tịch UBND tỉnh nhằm “cho nó biết tay” ! May mắn là không gây thiệt hại về người và tài sản, nhưng vụ án đã gây xôn xao dư luận trong tỉnh và cả nước. Tháng 7-1987 vụ án được xét xử công khai tại sân vận động Bắc Giang, có hàng vạn người tham dự, Giám đốc Công ty Ngoại thương Lạng Giang và anh trai là chủ mưu cùng 2  đồng phạm tội danh “khủng bố có tổ chức”, bị pháp luật xử lý nghiêm khắc. Qua đó càng cho thấy cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh phức tạp, gay go, quyết liệt, đòi hỏi người lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là người đứng đầu phải thật sự sát sao, công tâm, kiên quyết và có bản lĩnh. 
        Tính cách thẳng thắn, bộc trực của người Quảng Nam, vẻ bề ngoài khô khan và cách diễn đạt gay gắt của anh khi nêu lên những khuyết điểm của một đơn vị hoặc cá nhân, làm người được nhận xét dễ phật lòng, khó tiếp thu, nhiều  khi anh cũng bị hiểu lầm, nhưng ẩn sau vẻ ngoài “gay gắt” ấy là tấm lòng nhân ái, độ lượng, khoan dung và sự hóm hỉnh đầy chất nhân văn. Anh đã từng băn khoăn trăn trở về những phận đời gian khó, chia sẻ bùi ngùi về những số phận không may mắn…Vì vậy mặc dù anh xa Hà Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang) đã hơn 20 năm nhưng trong trái tim những đảng viên, cán bộ và nhiều người dân biết anh vẫn nghĩ về anh với tình cảm sâu đậm, trân trọng, quý mến, khâm phục một cán bộ có năng lực, trách nhiệm và bản lĩnh. Thiết nghĩ đó là “cái được” lớn, phần thưởng lớn và niềm hạnh phúc đối với một cuộc đời hết lòng vì nhân dân, vì chân lý, và vì một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn./.
                                                           Hồng Minh
-(*):Hồi ký của anh Mai Thúc Lân, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tinh Hà Bắc; nguyên Ủy viên Trung Ương Đảng khóa VIII, khóa IX; Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng; nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam; nguyên Phó Chủ tịch Quốc Hội.
(**):Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp tỉnh.


2